Tên di sản : Đình Phong Mục
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 4829/QĐ-UBND
Giới thiệu
Hiện đình có chiều dài 20,5m, chiều rộng 1,8m. Lòng đình dài 20,5m, rộng 7,4m. Tổng số cột lớn: 10 cột (chu vi 1,2m, chiều cao 4,6m từ mặt chân tảng đến đỉnh cột, chân tảng có kích thước 63cm x 4, vuông bốn mặt). Tổng số cột con: 10 cột (chu vi là 1,1m, chiều cao 3,6m từ mặt chân tảng lên đến đỉnh cột, chân tảng có kích thước 55cm hoặc 57cm x 4, vuông bốn mặt). Chiều cao của đình từ mặt nền đến thượng lương là 5,56m.
Kích thước của từng bước gian trong đình tính theo chiều ngang từ tường hậu đến cột quân là 1m; từ cột quân đến cột cái là 1,6m, từ cột cái phía sau đến cột cái phía trước là 3,33m, từ cột cái đến cột quân là 1,6m.
Kích thước bước gian trong đình theo chiều dọc từ từng vì: Gian thứ nhất là 3,1m, gian thứ hai là 3,1m, gian thứ ba là 3,4m, gian thứ tư là 3,1m, gian thứ năm là 3,1m.
Kết cấu vì: Đình có kết cấu 6 vì kèo làm bằng gỗ lim được kết cấu đăng đối theo từng cặp.
Cặp vì kèo sát tường vỉ (vì 1 và vì 6) có cấu trúc giống nhau, cấu trúc liên kết của vì kèo này là hệ thống quá giang, câu đầu, xà lòng và kèo suốt chạy từ nóc mái xuống sát tường đốc tạo thành một hình tam giác gần đều cả mặt trước và mặt sau. Các cấu kiện của hai vì kèo này được tạo tác vuông vức, trên thân có các đường xoi gờ chỉ ở các cạnh của các cấu kiện. Không có điêu khắc ở hai vì này.
Cặp vì kèo (thứ 2 và thứ 5): Đây là hai vì kèo có cấu trúc khá điển hình, toàn bộ hệ thống này được cấu trúc theo một hệ khung gỗ chạy dọc gồm cột quân - cột lớn - cột lớn - cột quân. Ở phía trên là hệ thống quá giang được ăn mộng vào hai đầu cột lớn ở mái trước và mái sau. Phía trên là hệ thống đấu trụ (hai đấu trụ) ăn mộng vào quá giang, phía trên đấu trụ là câu đầu ăn mộng vào hai đầu đấu trụ, tiếp đến là mặt hổ phù tạo thành một bức vỉ ruồi hình tam giác làm nhiệm vụ thay thế cho kèo mái để đỡ các hoành tải. Ở hai bên từ tường đốc lên đỉnh cột quân và cột cái là hệ thống xà đùi.
Cấu trúc của hai vì kèo giữa (vì 3 và vì 4) cơ bản có kiểu liên kết giống nhau: ở mặt trước và mặt sau là hệ thống kẻ bẩy gác đầu lên tường đốc ở mái sau, đầu kẻ bẩy ở mái trước gác đầu lên cột hiên. Để tạo nên sự liên kết giữa hệ thống cột hiên ở phía trước và kẻ bẩy ở phía sau, người thợ còn tạo thêm hệ thống xà đùi, cấu kiện xà đùi ăn mộng vào đầu cột quân (phía trên kẻ) chạy vào ăn mộng vào đầu cột lớn, phía trên là các hệ thống con rường cụt ngắn dần. Về trên thu mái đỡ hoành tải.
Từ phía đầu cột cái trở lên, ở hai vì kèo này không tạo tác các đấu trụ, câu đầu, con rường, kèo mà hệ thống này được thay thế bằng cấu kiện các con chồng dọc, ngang ăn mộng liền nhau tạo nên hệ thống đường truyện theo thế mái. Với kiểu kết cấu này đã làm cho toàn bộ bề mặt của hai bộ vì kèo này gần như được lấp kín các khoảng trống.
Về nghệ thuật trang trí:
Đình Phong Mục là một công trình kiến trúc nghệ thuật có nghệ thuật trang trí khá điển hình, các mảng chạm khắc chủ yếu tập trung ở vì kèo thứ 2 và vì kèo thứ 5.
Ở vì kèo thứ 2: Mặt hổ phù được chạm kín bề mặt của vì kèo từ quá giang trở lên trong tư thế nằm trên hai con sấu (Nghê - Sóc) quay đầu vào nhau đang ở tư thế lao chạy xuống dốc bỗng như bất chợt thu chân ghìm mình lại. Bức chạm mặt hổ phù được chạm ở tư thế dữ tợn, mắt lồi, trán dô, mũi to, miệng ngậm chữ Thọ. Ở trên thân kẻ của vì kèo này được chạm hình rồng hoá lá và hình chim phượng, xà đùi chạm hình phượng xoè cánh; các con rường chạm hình lá cúc cách điệu nổi, hình long mã trên xà đùi.
Vì kèo thứ 5: trang trí mặt hổ phù nằm trên lưng các con sấu, mặt nhìn dữ tợn, trán dô, mũi lồi to, miệng ngậm mây; thân kẻ chạm hình lá cúc nổi; ở phía trước: trên các con rường chạm hình lá cúc nổi, xà đùi chạm hình voi có yên.
Nghệ thuật trang trí ở đây còn được thể hiện trên tất cả các kẻ bẩy được chạm hình lá cúc cách điệu, nhằm tạo nên sự uyển chuyển, mềm mại của nội thất công trình. Ở vì kèo thứ 3 và 4 trang trí điêu khắc ở đây không phải là các bức chạm nhưng trên các cấu kiện của vì kèo nóc được tạo tác thành những đường gờ chỉ tạo thành những khuông ô trống mềm mại, ưa nhìn.
Ở phía ngoài đình, do thời gian lâu ngày, tu sửa nhiều lần các đường gờ chỉ của bờ dải, bờ nóc cũng bị hư hại vì thế mà diện mạo bên ngoaì của đình cũng ít nhiều thay đổi.
Nhìn chung, với kiến trúc hiện còn bảo tồn đến ngày nay cùng với những mảng chạm khắc có nội dung hết sức phong phú, vì thế, có thể nói đình Phong Mục nằm trong hệ thống kiến trúc đình làng giữa thế kỷ XIX tiêu biểu ở vùng Bắc Trung bộ nước ta.
Sân Thiên tỉnh có chiều dài 23,1m, chiều rộng 19,7m. Sân lát gạch bát màu đỏ.
Hậu cung: mới được tôn tạo lại năm 2007 gồm 3 gian có diện tích chiều dài 7,5m, chiều rộng lòng 4,85m, hiện rộng 1,1m. Nhà xây bằng bê tông cốt thép, mái dán ngói, nền nhà lát gạch bát. Nhà được trổ 3 cửa ra vào, cửa giữa rộng 1m, cao 2,05m; hai cửa bên bằng nhau rộng 0,75m, cao 2,05m, cánh cửa làm bằng gỗ.
Bài trí đồ thờ:
Trong nhà Hậu cung ở gian giữa được xây bệ thờ bằng xi măng có kích thước chiều dài 2,7m, chiều rộng 1,1m, chiều cao 1,2m. Trên bệ thờ ở chính giữa đặt ngai thờ, ở phía dưới đặt các đồ thờ như bát hương, hạc thờ, ống hương, mâm bóng…
Nhà Tiền đường, gian giữa đặt hương án, kích thước chiều dài 1,8m, chiều rộng 0,80m, chiều cao 1,2m. Trên hương án ở giữa đặt bài vị, phía dưới đặt các đồ thờ như bát hương, mâm bồng, hạc, ống hương v.v...ở phía trên được treo một bức đại tự có nội dung “Âm dương hợp đức”.
Hiện vật trong di tích:
Hiện nay, tại đình Phong Mục còn lưu giữ được một số hiện vật như sau:
Hiện vật mới: 01 ngai thờ; 01 bài vị; 01 hương án; 04 bát hương sứ; 02 hạc đồng; 02 hạc gỗ; 03 đài nước; 01 bát hương đồng; 01 giá chiêng; 01 giá chuông; 01 chuông.
Hiện vật cũ: 01 bức đại tự; 04 mâm bồng; 01 ống hương gỗ; 06 chân tảng đá; 01 khay mịch; 01 tráp gỗ,... và nhiều các loại gạch có kích thước to nhỏ khác nhau.